Mùa rập cu xanh




                                        
                                        Mùa rập cu xanh
                                                                                                       An Sinh
Croooc.. crooc.. cô cô..róc…rộc… Đó là tiếng gọi bầy của loài cu xanh là loài chim thuộc họ bồ câu sống ở rừng, chuyên ăn các loại trái cây rừng, chúng sống từng đàn vài trăm con, trọng lượng bằng bồ câu nhà. Cứ chạng vạng chiều hoặc lúc bình minh vừa ưng ửng nền trời, chúng thường rủ nhau đến những bãi sỏi để ăn, người đi rập chim gọi là sân chim.

            Vào thập niên 70 thế kỷ trước, những chuyến công tác về làng vùng xa ở xã Yang Trung (huyện Kong Chro ngày nay). Những ngày nghỉ tôi thích nhất là đi rập chim cùng anh Đinh Bôi. Với dụng cụ rập chim đơn giản là 2 tấm lưới đan thưa bằng nhợ dây gai nhộm nâu, rộng khoảng vài chục mét vuông kẹp vào hai bên là thanh gỗ le căng lưới và hai sợi dây nối vào biên rập để kéo cho hai mảnh lưới úp lại.
Tờ mờ sáng chưa tỏ mặt người, chúng tôi đã có mặt nơi sân chim khu vực làng Tơ Nang. Cách bìa rừng không xa, một vũng đất trũng trơ sỏi, nằm bên con suối cạn, rộng chừng vài trăm mét vuông, chính giữa có một vũng nước đọng. Chúng tôi căng lưới, đóng ủ, đóng nọc trải lưới trên sân chim gần vũng nước. Chính giữa là con chim mồi cột chân đứng trên một cành cây khoảng giữa sân. Chúng tôi lặng lẽ ngồi vào ủ lá chờ đợi.
Anh Bôi vui vẻ kể: Nơi này là vũng đất khê có vị mặn, hạt sỏi có màu trắng, nhỏ đều nhau, chim thích ăn bởi có chất muối hoặc những hạt sỏi sẽ giúp cho sự tiêu hóa thức ăn của chúng. Hàng ngày chúng thường tập trung về đây vào những buổi chiều gần tối hay sáng sớm. Chính vì vậy cả khu vực này chỉ có một sân duy nhất mà chim thường về khoảng vào đầu tháng 10 đến tháng 6 năm sau.  Nhớ ngày xưa hồi anh còn nhỏ, những ngày thiếu muối dân làng cũng thường xuống đây đào đất sỏi nấu lên để cho lóng cặn, lấy nước trong cô đặc làm nước muối. Tôi lấy một hạt nếm thử có vị mặn.
Nền trời ửng sáng dần, thi thoảng có một vài con chim đi ăn sớm đảo qua rồi bay vút vào cánh rừng. Mặt trời vừa xòe cánh quạt màu hồng qua rặng núi, con cu xanh (tiếng Bahnar gọi là Cơmoar) đầu đàn về đậu trên cành cây cao nhất cạnh sân chim, có lẽ nó đang thám thính trước. Tiếng hót cất lên cruuuc.. rooccc… chừng mươi lần, anh Bôi giật dây cho con mồi chớp cánh. Trên nền trời đàn cu xanh quần đảo, tiếng kêu bắt đầu inh ỏi cả khu rừng. Anh Bôi bấm vào tay tôi bảo: “Cơmoar đến rồi đấy!” tôi dẹt cành lá ủ nhìn ra ngoài, bầy chim lượn qua vài lần rồi từ từ đáp xuống vài con, sau đó cả bầy đáp xuống cả trăm con, đập cánh rần rật. Chúng tha hồ dạo trên bãi sỏi mổ ăn, con thì lao xuống bờ nước cúi đầu uống, con khác lại gục gục đầu, cổ xù lông có lẽ đang gù bạn tình. Trên cành cây nơi bìa rừng, tiếng gù những chú cu cườm, cu ngói cũng cất lên rồi hối hả đậu xuống tranh phần. Riêng chú gầm ghì, thân hình to như gà mái ghẹ, sà xuống đập đôi cánh màu nâu phành phạch như ra oai, giành chỗ, nó đi tới đâu các chú cu xanh né ra tới đó. Từ trong rừng chú công trống lững thững dẫn đàn công mái, công con cũng lần ra bìa rừng. Như ra oai với các loài, công trống xòe đuôi màu sặc sỡ, bước chậm rãi tạo nên một điệu múa ngoạn mục. Mặc cho hoạt động xung quanh diễn ra, các chú cu xanh cứ ung dung dạo và rầm rì một ngôn ngữ chỉ có chúng mới biết. Anh Bôi chỉ tay vào một con cu xanh nói: “Con chim có sắc màu xanh-xám toàn thân, đôi mắt tròn long lanh, đầu đôi cánh có đốm trắng là cu mái. Những chú cu trống thì thân hình to hơn và đẹp hơn, với lưng cánh có điểm màu nâu hồng, khoanh cổ màu cam, đỏ loang ra tới ngực. Riêng đôi chân cũng khác với chim mái là trên kẽ thêm vài sợi lông và màu hồng tươi hơn”. Tôi mãi say sưa ngắm sự vui nhộn của bầy chim, anh Bôi bảo tôi nắm vào sợi dây cùng anh kéo rập. Hai cánh rập dựng lên. Gầm ghì, cu ngói và một số cu xanh giật mình cất cánh bay thoát. Khi 2 cánh rập sập xuống nhốt lại phân nửa chim cu xanh vào trong lưới. Anh cột dây rập cẩn thận vào cọc đóng sẵn và lao ra, tôi cũng chạy theo anh. Bầy chim mắc lưới đập cánh phành phạch. Anh Bôi tuần tự lòn tay qua lưới bắt từng chú cu xanh. Cứ mỗi con anh bắt ra lại nhìn, bóp ngắm thật kỹ mới bỏ vào lồng. Có những con anh lại tung lên trời cho nó bay đi. Tôi thấy lạ hỏi anh, anh trả lời: “Thấy nó gầy hơn các con khác chắc là chim bố mẹ đang ấp trứng, thả cho nó về nuôi con, mai mốt mới có chim mà bắt nữa”. Tôi lao vào bắt cùng anh nhốt vào lồng khoảng vài chục con.
Về đến nhà trước khi mang ra làm thịt, anh còn chọn và thả đi một số nữa vì anh cho rằng: “Nhiều quá ăn không hết, nhốt để dành nó không chịu ăn gì sẽ chết tội nó, nó về rừng sống, sau này muốn ăn lại đi bắt nữa, mất đi đâu”.
Đã trên 40 năm, tôi trở lại vùng sân chim ngày xưa, con đường nhựa đã đi qua gần đó. Người dân đã biến cả khu vực này thành cánh đồng mía bạt ngàn màu xanh.  Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về triết lý sống hòa chung với rừng của người Tây nguyên, họ không bao giờ tận diệt mà luôn luôn gìn giữ như của cải nhà mình. Vì nó đã trở thành là cái kho chung của cộng đồng làng mà mọi người đều được hưởng./.
                                                  AS.

Nhận xét