An Khê những ngày tháng 3 năm
1975
Hồi ký
Những luồng khói đen cuộn
lên nền trời, từ những chiếc xe quân sự chất đầy hồ sơ đang cháy trong sân quận
An Túc (An Khê bây giờ). Khu trung tâm quận im lặng, không một tiếng súng nổ,
đường phố không có xe quân sự, rất ít người qua lại. Đèo An Khê đã bị tắt đường
trên 2 tháng. Một thông tin phát đi từ Chi khu An Túc đến các máy truyền tin PRC
25 của các binh chủng quân sự trên toàn quận: “-Các đơn vị nhanh chóng rút quân
về quận để nhận thông tin mới”. Đó là lúc 08 giờ ngày 20/03/1975. Trên các ngả
đường liên xã, qua các cánh đồng, từng đoàn lính hàng dọc tiến về quận. Không
ai bảo ai, đoàn người cả lính lẫn dân thường lại tiếp tục tỏa ra đi theo con đường
tắt về hướng Ya Bài. (xã Ya Hội ngày nay) Xé đường núi đi về hướng Đồng Vụ, Đồng
Tre…
Tôi lúc này là một thư
sinh đang mang đàn đi chơi cách nhà chừng 2km. Khoảng 16 giờ. Đoàn quân của ông
anh đi ngang qua, tình cờ gặp tôi đi ngược chiều về nhà, ông bảo: “ Đi thôi em,
đừng về nhà, VC đã đến sau lưng rồi”. Nghe nói VC là sợ, không biết là sợ gì và
cũng không nghĩ là đi để làm gì. Vứt cây đàn lên bờ rào dăm bụt, chân bước theo
anh.
Trăng mùng 8 tháng 2
treo lơ lửng trên nền trời giữa rừng Ya Hội. Những đoàn người đi di tản này
không những là lính VNCH mà còn rất nhiều người dân, trong đó có cả các bà, các
mẹ bồng con nhỏ và trẻ em học sinh. Những bước chân lầm lũi bám theo nhau, trên
con đường mòn, cây lá bị giẫm nát còn mới nguyên màu xanh. Thi thoảng trên đường
có tấm giấy kẹp vào cây le cắm chỉ dẫn: “ Im lặng, lấy lá ngậm vào miệng”. Chỉ
có ánh trăng và tiếng chân người giẫm lên đá, cây cỏ và hơi thở dồn dập.
Qua 1 ngày, một đêm
không được đun lửa vì sợ phát hiện, chỉ uống nước suối và gạo rang, ai không có
gạo rang thì ăn gạo sống. Hồi còn ở nhà, cách đó khoảng 1 tháng. Má tôi lầm lũi
rang gạo và đổ vào ruột nghé khoảng 5kg. Khi ông anh về má bảo: “Chiến tranh
mà! Con mang thứ này bên người, không biết chạy loạn hồi nào. Khi chạy lạc, có
nó cầm hơi, tìm đường mà về”. Tôi là người mang chiếc ruột nghé gạo rang ông
anh trao cho quàng vào cổ. Thi thoảng mở gút bao hốt một nắm nhai và đi tiếp.
Tôi tưởng rằng chỉ anh em tôi có thứ này, nào ngờ mọi người cũng có. (có lẽ họ
cũng tiên đoán dược việc chạy loạn sẽ xảy ra) Qua 3 ngày, đêm lội rừng, trèo
núi. Những bước chân lúc này như đi trên không trung vì thiếu ngủ. Người như nhẹ
bổng, mắt trân trân mà thần thức như đang ngủ, vấp bất cứ hòn đá nhỏ, dây rừng
mành cũng đủ ngã sấp. Đặc biệt hơn là đoàn phải vượt con sông Đắk Ha Way, nước
lên đến tận ngực và nhiều khe sâu hiểm trở. Dưới các hố, những cây chuối rừng bị
lấy lõm non te tua, xơ xác, những lùm cây lau, cây sậy cũng bị đạp nhàu nát để
lấy đọt để ăn.
Trên đường đi, mọi người
bổng xúm lại bên một ông già nằm sải chân bên vệ đường, mắt nhắm nghiền. Một em
bé ngồi bên cạnh, úp mặt trên đầu gối. Có ai đó sờ vào người ông cụ lạnh toát, máu
me đầy chân, đầy mặt mũi đã khô quánh, nói: “Cháu đi đi, ông đã chết rồi” Cậu
bé ngẩng đầu lên; “ Không, để ông nghỉ một chút, ông dậy dắt ông đi tiếp”. Ông
anh kéo tay cậu bé đứng dậy nhưng cậu vùng vằng không chịu đi, đành hốt mấy nắm
gạo rang bảo cậu bé chìa áo ra đựng.
Đoàn người lại tiếp tục,
được một đoạn thì phía sau lưng tôi một tiếng nổ lựu đạn vang cả một vùng rừng
núi kèm theo tiếng nói lớn: “Bà con, anh em binh lính về đi, đừng đi nữa. Đi sẽ
chết đấy! Hai bên đường đi, những loạt đạn bắn dự chừng rải vào bìa rừng, gầm
thét. Tôi cũng hoảng hồn nằm ập người xuống bãi cây rừng, một mũi cây nhọn khô
đâm vào chân mày, máu trào ra phủ một bên mắt. Ông anh lo lắng, dùng băng cá
nhân băng lại. Một số người chạy tán loạn vào rừng. Khi im tiếng súng. Phía trước tôi một tiếng hét lớn của tên Đại
úy Bút-trưởng Chi khu Cảnh sát An Túc: “Thằng nào? Thằng nào đã ném lựu đạn, bắt
lên đây”. Một anh mặc quân phục VNCH bước tới hai tay không, nói: “ tôi ném dọa
đấy, bảo mọi người về đi, đi tiếp là sẽ bị chết uổng thân”.
Tên Đại úy Bút hét to:
“ À, mày muốn giết đoàn quân à?” Vừa nói ông rút cây súng rouleau ngắn nòng, bước
tới gần anh lính dí nòng súng vào đầu. Một tiếng nổ khô, đanh. Anh lính gục
ngã. Mọi người đều đứng im, lắc đầu. Sau này tìm hiểu, anh là lính của Chi khu
Hoài Ân đã di tản dân, quân trước đấy, từ huyện Hoài Ân lên đóng ở khu quân sự
của Mỹ sau lưng Hòn Cong.
Trong loạt súng vừa rồi
có một người tên Lý (hình như làm truyền tin cho Chi khu AT) hoảng hốt chạy loạn
vào rừng, bị một mũi mang cung của đồng bào Bahnar gài thú rừng. Khi mọi người
khiêng ông lên, mũi lồ ô còn nằm ngang đùi. Một tóp lính được điều động khiêng
ông cho tới mấy ngày sau, nghe nói ông đã chết.
Nói về chuyện của ông
già thương tâm nằm bên vệ đường. Ông tên Huỳnh Văn Nui 61 tuổi, Ông bị mù từ
năm 1954 vì một trận dịch mắt. Ở tại thôn Tân Phong B, xã Song Tân. (nay là xã
Tân An, Đak Pơ) Thằng cháu tên Đặng Thành Nhơn, năm đó11 tuổi. Từ năm 7 tuổi
Nhơn đã từng dắt ông ngoại đi bằng chiếc gậy dò đường của ông. Năm đó, dì của
Nhơn (em mẹ Nhơn) đang học ở Phú Phong. Ông nghe ai đó nói; nếu ở lại sẽ bị bom
B52 đến sang bằng cả vùng An Khê nên ông sợ, quyết đi khỏi nơi này để tìm con. Lần
này sẵn dịp có người đi di tản, ông đi theo cùng gia đình. Khi qua khỏi sông Ba
vào rừng, trời tối nên mẹ Nhơn bị lạc nên trở về nhà, còn chỉ mình Nhơn dắt ông
đi theo đoàn người.
Ông cũng không biết đường
bao xa và hiểm trở như thế nào nhưng ông cứ thúc Nhơn dẫn đi. Một phần ông
không có gì ăn nên ông đã kiệt sức mà phải nhiều lần vượt núi, vấp đá ngã nhào.
Có những đoạn đường phải đu dây, rễ cây rừng để qua. Những con dốc cao, đầu người
sau đụng gót chân người trước. Qua 3 ngày ông đã mệt lã và nằm lại. Nhơn cứ ngồi
đó đến 1 ngày sau nữa, khi đoàn người đã đi qua hết. Rừng lạnh, vắng teo. Phần
thì thương ông, phần thì đói, khát nước. Nhơn cố gắng lay ông dậy nhưng ông đã cứng
đơ. Nhơn đã khóc thật nhiều và chỉ biết bẻ lá phủ lên mặt, lên người ông rồi
đi.
Nương theo đường mòn dưới
ánh trăng xuyên qua tán rừng già loang lổ, mập mờ. Nhơn không đi theo đường mới
mà lần theo dốc núi đi xuống, men theo khe suối để tìm nước. Gặp con đường mòn
nhỏ. Nhơn đoán có thể sẽ về tới nhà ai đó. Chân cứ bước trong run run sợ hãi, Nghe
tiếng ếch nhái kêu, Nhơn nghĩ là có nước nên lao xuống tìm. Gặp được một hố nước,
trên miệng phủ đầy cây, lá và rau dớn. Nhưng cơn khát cứ thôi thúc, Nhơn dò lần
trong bóng đêm bước xuống, không ngờ sẩy chân rơi xuống hố sâu, vách đứng. Nhơn
giãy giụa, cố tìm lối lên bờ, nhưng đành tuyệt vọng. Nhơn đu mình trên một rễ
cây chìa ra mặt nước, ráng cố sức la thật to mong có ai đó kêu cứu, nhưng đành
vô vọng.
Qua một đêm, trời cũng
bắt đầu hé sáng. Nhơn cố la nhưng giọng như mèo con thiếu sữa không ra nổi tiếng.
Trên con đường mòn, anh Ba Tươm dẫn tổ dân quân đi qua, nghe tiếng kêu dưới hố
bom. Một anh dân quân chìa súng xuống định bắn. Ba Tươm khỏa tay, vén lá nhìn
xuống là một đứa bé, mặc áo cộc tay màu cháo lòng, quần đùi ướt nhẹp, đang ngồi
như con nhái óm, run run tái nhợt. Ông ra lệnh thả dây rừng đu xuống cứu Nhơn
lên.
Từ khi về nhà, ba Tươm
giao Nhơn cho bố là ông Đinh Cong hiện làm Bí thư Chi bộ ở làng Giọt 1, xã Vĩnh
An, Huyện Tây Sơn, Bình Định. Ngày đầu tiên bước vào nhà, Nhơn nằm sải trên chiếc
chiếu bên bếp lửa, Bok Cong lấy khố quấn cho Nhơn. Mọi người trong nhà vào bữa
cơm. Nhìn thấy cơm Nhơn thèm lắm nhưng không ai cho. Một lác sau, Bok Cong mang
lại cho Nhơn một chén cháo nhỏ loãng và nói. Cháu ăn từ từ thôi, mai mới được
ăn cơm, ăn nhiều bây giờ sẽ chết.
Từ ngày Nhơn về ở đây
được sống vui vẻ cùng đám trẻ của làng. Nhiệm vụ là theo bọn trẻ ra đồng chăn
trâu, bò. Phần ông Đinh Cong, sau khi hỏi biết Nhơn ở đâu, cha mẹ tên gì. Khi
ra cơ quan xã làm việc, ông đã viết nhiều lá thư gửi đến địa chỉ trên nhưng
không nhận tin tức phản hồi. Hơn 1 năm sau, gia đình Nhơn nhận được thư và lần
tìm theo địa của ông. Nhơn được nhận về nhà kể từ đó. Riêng ông Đinh Cong không
nhận bất cứ món quà gì của gia đình Nhơn. Hàng năm, nhơn thường về để thăm như
là gia đình thứ 2 của mình vậy.
Thời gian sau ông Đinh
Cong mất, rồi đến ba Tươm cũng mất, chỉ còn lại đứa con gái của ba Tươm và các
cháu. Riêng phần ông ngoại. 3 năm sau Nhơn có dẫn họ hàng tìm đến chỗ cũ nhưng
không tìm ra, đường mòn năm xưa đã không còn.
44 năm trôi qua, Nhơn
hiện nay là một nông dân ở tại ngay quê hương mình sinh ra. Một ngôi nhà cấp 4
khang trang. Có vợ 4 con. 2 đứa đi Đại học và 2 đứa đang học phổ thông. Gia
đình hạnh phúc, no đủ như nhiều gia đình khác.
****
Cuộc hành trình của
chúng tôi lại tiếp tục. Ruột nghé gạo rang mang theo cũng đã hết. Tiếng súng,
tiếng đạn cối cứ thi thoảng nổ lên nhiều loạt phía trước. Nhóm chúng tôi gồm 7
anh em quen nhau, đa phần ở trong xóm, trong đó có một anh lớn tuổi là anh ba
Viên, làm trưởng ban quân số quận AT bấy giờ, nhà ở Phú Phong. Dẫn đầu là một
anh lính trung niên, không biết binh chủng nào, về phép bị kẹt đèo AK không đi
về đơn vị được. Có lẽ anh cũng là người đã dạn dày chiến trận. Anh nói: “cứ
theo anh sẽ đi ra khỏi đây”.
Chúng tôi đi khoảng 1
buổi, anh leo trên cây nhìn xuống, phía trước là đồi núi nhiều tranh. Bỗng
nhiên một thanh niên mặc đồ thường chạy ngược trở lại hớt hải lao vào nhóm
chúng tôi nói: “ Đi đường khác thôi, đi theo đoàn người kia bị VC chặn lại rồi,
qua đó sẽ bị bắn chết”. Tiếng nổ đạn cối, đạn súng trường, súng máy. Khói tung
mù mịt trên đồi tranh trước mặt.
Chúng tôi đành phải đi
ngược lại, xuyên rừng vòng vào lưng chừng núi để tránh đường. Lúc này lương thực
đã hết từ hôm kia. Đói, khát nhưng không dám lội xuống hố để lấy nước. Đêm đến,
không thể chịu được nữa, đành phải mạnh dạn mò xuống suối lấy nước. Vừa đến con
suối nhỏ, bỗng tiếng khóc của con nít ré lên “tu oa” trong hốc núi, nhìn xa xa
có ánh đèn Pin rọi Mọi người ai cũng run sợ vì đã đi nhầm lọt vào mật khu. Anh
dẫn đường hối chúng tôi múc nước vào bi-đông càng nhanh càng tốt, rồi đi theo
anh vượt dốc thẳng đứng leo lên đỉnh núi. Những ngày sau chúng tôi gặp lau rừng
ở đâu là sà vào bứt lấy đọt non ăn, uống nước cầm hơi. Từ trên đỉnh núi cao đã
nhìn thấy thị trấn Phú Phong nhưng chưa dám xuống, chờ đến gần sáng anh dẫn đường
mời ngoắt tay chúng tôi tuột núi.
Sáng tinh mơ vào ngày
thứ 6 chúng tôi đã đi vòng đường đồi tranh thoát hiểm, xuống được chân núi. Con
đường mòn uốn lượn theo eo núi đi ra thị trấn Phú Phong. Đang đi, có 3 người đi
ngược chiều, quân phục lính Sư đoàn 23 hô lớn: “Đứng lại, bỏ ba lô, tư trang, đồng
hồ, nhẫn vàng xuống”. Chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra, anh dẫn đầu dừng lại
bỏ ba lô, chúng tôi cũng bỏ theo. Một tiết thét lớn nữa: “ Bấm lấy đạn ra khỏi
nòng súng, đàng sau quay, bước tới 5 bước”.
Tất cả chúng tôi làm
theo lệnh. Ba người lính trên tiến tới, cúi xuống nhặt ba-lô. Anh dẫn đầu nhanh
tay rút trong túi quần ra băng đạn lắp vào súng và những loạt đạn 3 viên một,
nhả vào 3 tên lính không kịp trở tay. Ba tên lính nằm trên vũng máu. Anh ra lệnh:
“lấy tư trang chạy, anh em!. Mẹ nó, lừa được tao à! Tới giờ này mà còn cướp”.
Gần thị trấn, trên các
đường làng những gánh cháo được bày ra, chúng tôi cứ tưởng những người bán hàng
rong, nhưng khi bước đến, họ múc ra từng bát cháo loãng mời chúng tôi: “Các em
ăn đi, không phải trả tiền đâu!”. Có người chìa bát xin thêm nhưng các bà không
cho nữa sợ trúng thực vì đói lâu ngày. Nhận từ tay các mẹ, các chị bát cháo mà
lòng dậy lên một sự biết ơn vô hạn…
Còn
3 ngày nữa là ngày giải phóng thị trấn Phú Phong 31/3/1975. (còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét