TÌM HIỂU LÁ TRIỆU DÀNH CHO NGƯỜI QUÁ CỐ


            Trong mỗi gia đình người Việt Nam chúng ta không gia đình nào không có một vài lần tiễn đưa một người về nơi thế giới bên kia, vì vậy lá triệu để tiễn đưa hay gọi là “ lý lịch trích ngang” của người ra đi.
 Lá triệu cho đến ngày nay chưa ai tìm tìm hiểu về xuất xứ của nó. Nhưng theo các thầy tu, và các người già giỏi hán tự giải thích khái quát rằng: Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta và  thịnh hành nhất là thời Lý. Khái niệm về Niết bàn và Âm phủ được truyền bá và lần lần ăn sâu vào trong mỗi tầm thức con người. Từ đó, thuyết Niết bàn Âm phủ lan rộng đầu tiên là trong giới hoàng tộc rồi tới thứ dân. Một tín ngưỡng tốt trải qua ngàn năm đã trở thành phong tục tốt. Vì vậy, người mất có phải là người trong Phật tử hay không, cũng hi vọng được Địa Tạng Vương Bồ Tát căn cứ vào lá triệu mà tiếp dẫn về cõi Tây phương.
** Lá triệu tại sao là màu đỏ và chữ viết phải là màu trắng mà không là màu gì khác.
Trong dân gian có câu truyền khẩu này dùng làm nguyên tắc cơ bản khi thực hiện một lá triệu.        
 Nhất xích, nhất trượng
 Mẫu huyết, phụ tinh  
Thân, thể, thọ, sinh
Nam linh, nữ thính.
Câu 1 – Nhất xích, nhất trượng (một thước, một trượng): là kích thước lá triệu: ngang 1 thước     
             dài 1 trượng. Thước là thước mộc ngày xưa (1 thước gần 40 cm) và một trượng 10 thước (gần 4 mét).
Câu – 2 Mẫu huyết, phụ tinh (máu mẹ tinh cha) tức chỉ nền vải lụa màu đỏ, chữ viết màu    
              trắng, tượng trưng cho hai tố chất của cha và mẹ làm ra hình hài con người.
Câu 3 – Thân, Thế, Thọ, Sinh. (Thân thế lúc sống và tuổi thọ) tức nội dung lá triệu được coi    
              như “lý lịch trích ngang” của người mất gồm địa chỉ: Tên nước, tỉnh, huyện, xã, rồi      
              tên họ người mất thứ bậc trong gia đình hưởng thọ hoặc hưởng dương bao nhiêu tuổi, 
              lúc còn sống chức tước, là người tốt hay người xấu trong xã hội. Viết từng chữ từ trên    
              xuống dưới.
 Câu - 4  Nam Linh, Nữ Thính (nam chữ Linh nữ chữ Thính) là cách viết một lá triệu
              cho đúng giới tính của người mất. Phải nháp trước khi viết, chia từng cụm, mỗi cụm  
              4 từ rồi khởi đếm từ chữ đầu đến chữ cuối, miệng nhẩm, tay điểm từng chữ: QUỈ
              KHỐC LINH THÍNH… đọc tới chữ cuối cùng phải đúng vào tiếng LINH (nếu người
              mất là đàn ông, chữ THÍNH nếu người mất là đàn bà). Ví dụ lá triệu như sau:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QUỐC, GIA LAI TỈNH, CHƯ SÊ HUYỆN, TÂN AN XÃ, TÁNH TRẦN VĂN A, ĐỆ NHỊ HÀNG, HƯỞNG THỌ BÁT THẬP TUẾ, CỐ CHỦ TỊCH, BIỂU VIẾT THIỆN NHÂN CHI CỬU.
Đọc qua lá triệu người ta biết đây là người nam,  người con thứ hai trong gia đình, hưởng thọ 80 tuổi, trước đây làm chủ tịch, nhân thân hiền, tốt.
Số chữ trong lá triệu nếu đếm từ chữ đầu đến chữ cuối là chữ CỬU thì đúng vào tiếng LINH. Là cho nam, còn nữ thì có thể thêm vài chữ vào cho hợp vào chữ THÍNH. Nội dung thêm như sau: Trinh Thuận Nhân, Khả Kính Mẫu, Tiết Liệt Phụ…không hạn chế số chữ trong lá triệu.
Ngoài ra, trong lá triệu chữ HƯỞNG THỌ chỉ dùng cho những người chết đã qua tuổi 60. 80t THƯỢNG THỌ, 90t THƯỢNG THƯỢNG THỌ, trên 100t TRƯỜNG THỌ. Vì tuổi này đã qua tuổi hồi cung, có nghĩa là theo lịch tuổi tuần hoàn thì cứ 60 năm trở lại tuổi đầu tiên. Ví dụ như: ông Trân Văn A, sinh năm Ất Dậu, đến 60 năm sau sẽ trở lại năm Ất Dậu. Người mất dưới tuổi này ghi là HƯỞNG DƯƠNG.
Lá triệu có hai loại: Lá triệu nhà chùa và lá triệu làng. Lá triệu chùa là dành cho người mất là người có tu một chùa nào đó có pháp danh, còn lá triệu làng dành cho người dân không đạo. Lá triệu cơ bản là giống nhau nhưng lá triệu chùa có thêm ở phần cuối chỗ huyện xã: THỦ LỄ TÂY PHƯƠNG TIẾP DẪN VONG HỒN  Trần Văn A  PHÁP DANH  HỒNG ĐỨC.
** Tại sao có những chữ trên lá triệu bị dán lại?
Phần cuối của lá triệu là quan trọng hơn cả, vì nó là sự thẩm định hạnh kiểm của người mất mà người viết triệu là người có đức cao vọng trọng trong làng mới đưa ra kết luận. Trong cụm từ: “ Thiện nhân chi cữu” là câu phê tốt chung chung của người thời nay, không gây mích lòng. Ngày xưa nếu người chết vì đại nghĩa là người nam thì tôn tặng : Nghĩa sĩ, Thiện nhân, Hiếu tử, Anh hùng… Người nữ thì : Tiết phụ, Nghĩa thê, Đoan thục, Trinh nữ… Còn chết vì gian dâm, trộm cướp, phản quốc thì phê một bản án nặng nề là: Gian phu, dâm phụ, đạo chích, phản thần. Những lá triệu bị phê như vậy là tang gia dùng lá vàng bạc dán kín chữ đó lại để tránh tiếng thị phi.
Còn một chỗ trên lá triệu được dán nữa là: Tuổi của những người quá cố, khi mất nằm trong cung mạng xấu. Ví dụ như: ông Trần Văn A mất tuổi 80 cung Ly là xấu nên dán lại để tránh tiếng bàn tán của chòm xóm làm ảnh hưởng đến việc tang lễ.
 Tóm lại, ngày nay bất luận người quá cố có lý lịch tốt, xấu như thế nào thì cũng phê là “Thiện nhân chi cữu” vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Người ra đi để người ở lại đã đau xót lắm rồi! Nên không ai truy cứu làm gì. Chỗ tuổi hưởng thọ bị dán lại, ngày nay có nơi cũng bỏ hẳn việc xem cung mạng, tốt, xấu vì khi đã ra đi là không còn gì phải nói nữa. Vì vậy, khi gia đình lâm chung là có ngay một bảng CÁO PHÓ thì đã quá rành mạch với người sống rồi.
Còn một điều cần nói là hiện nay tất cả chữ viết đều sử dụng chữ phổ thông, trên các mộ chí cũng dùng chữ phổ thông, còn chữ triệu thì có rất ít người dùng chữ phổ thông dạng chữ thư pháp mới. Mà dùng toàn chữ Hán hoặc Nôm. Thiết nghĩ, viết bằng chữ Việt để tạo cho người viết lẫn người đọc dễ dàng hơn. Như vậy tính phổ cập văn hoá mới thật sự nâng cao trong cộng đồng xã hội./.

                                                                                                An Sinh



Nhận xét