Mùa chà là
An Sinh
Vào thập nên 60 của thế
kỷ trước. Quê tôi gặp phải một năm thất mùa do Mỹ rải chất độc khai hoang. Những
cây mì chỉ qua một đêm, sáng ra đã queo đọt như bị tưới nước sôi. Củ mì, củ lang
đào lên đã thối rữa. Năm ấy, xóm nhà nghèo như gia đình tôi nhiều bận phải ăn
cơm ghế hạt chà là.
Má tôi kể, ngày trước, thời
má còn trẻ như chúng tôi, cuộc sống còn khó khăn, thiếu thốn, chà là một loại
trái giúp cho nhiều người ăn đỡ đói. Không ngờ năm ấy tình cảnh lặp lại. Vào một
buổi sáng tinh mơ tiết tháng 3 năm ấy, khi màn sương còn dày đặc trên đồng, má cho
tôi theo cùng vào rừng hái chà là. Bước ra khỏi nhà vài trăm mét là những cánh
rừng thưa, chen trong từng khoảnh rẫy. Những lùm chà là mọc hoang rải rác từng
cụm nhiều vô kể. Cành lá xanh mướt như những cây cau kiểng, cao không quá đầu
người. Những chiếc lá nhọn, đối nhau, dài và cứng chìa ra như đầu mũi tên. Bao
vây trong lùm gai lởm chởm là những buồng trái, đeo chi chít những hạt chà là hình
bầu dục lớn bằng đầu đũa. Má tôi dùng rựa khẽ dọn gốc, chặt bỏ những cành lá có
gai xòe ra để được hái quả. Má phân tích: Có hai loại quả, chà là nếp trái màu
vàng, chà là tẻ có màu xanh, trái ngon như nhau.
Nói rồi má đưa tay ngắt
một trái cắn thử, khi những trái vừa già tới, nhai nghe sần sật là hái được. Những
chùm trái được cắt, chất thành đống và lặt ra khỏi cuống, dồn bao mang về. Khi
chà là được luộc chín, má tôi mang ra suối ngâm trong dòng nước chảy, chà xát mạnh
vào thềm rổ để đãi vỏ. Những hạt non màu trắng nõn nhỏ hơn đầu đũa được bóc dần
ra. Sau đó, đem về phơi khô, giã nhỏ, vo chung với gạo để nấu cơm. Đặc điểm hạt
không dẻo, không nở, không bám dính với hạt cơm. Những bữa cơm phần lớn má nhường
hết cho chúng tôi nên thi thoảng mới gặp một vài hạt, nhai mãi mới tan trong miệng.
Đến cuối bữa ăn, thấy má ngồi vét từng hạt cơm cháy hông nồi còn sót ăn ngon
lành, mới biết ăn hạt chà là chẳng qua là lừa dạ dày, bí quá ăn liều mà thôi. Những
bữa cơm ghé rời rạc mà nhà tôi chỉ cố kéo dài cho qua cơn thiếu đói.
Với lũ trẻ chúng tôi,
trái chà là là loại quả ưa thích. Mùa chà là chín rộ vào tầm tháng 6. Cả xóm
chúng tôi, nhất là những đứa choai choai, cả trai lẫn gái, sáng sớm đã í ới
nhau vào rừng. Từ xa đã nhìn thấy những trái chà là chín đen, chi chít đóng thành
chùm. Mấy đứa bạn ham trái chín mọng cứ xông vào, mặc cho những cây gai chìa ra
đâm vào tay tứa máu. Tôi cũng vậy. Tay giũ, tay hốt đưa vào miệng, nhồm nhoàm, ngoài
hạt cứng còn lại cơm có màu đen nâu, dần dần tan trong đầu lưỡi dậy lên mùi
thơm dịu nhẹ, vị ngọt thanh như hương vị dược thảo đặc trưng.
Mỗi đứa một lùm, cứ xoắn
xít, cắm mặt dán vào chùm trái như đàn chim gặp mồi hớn hở. Dụng cụ để hái là
chiếc rổ thưa, hứng vào dưới chùm trái, dùng tay giũ nhẹ cho những trái chín rụng
xuống rổ, đầy lại đổ vào bao. Khi những trái chà là đen kịt, láng bóng, rươm rướm
mật đầy ắp rổ, đầy ắp những bao cũng là lúc cơn thèm ăn của chúng tôi cũng thỏa
mãn, nhe cả hàm răng đen nham nhở cơm chà là, trêu nhau, nổ ra những trận cười no
nê, hớn hở... Khi chiều xuống, lũ chim te te quần đảo trên đầu huýt lên những hồi
còi như thúc giục, gọi nhau về tổ. Chúng tôi lại lặc lè mang vác về nhà. Những khi
nhiều quá má mang ra chợ bán bớt. Có lúc má tôi bắc chảo lên đổ thíp nước nấu
cho keo lại, vớt bỏ hạt, lấy mật để dành trộn vào nổ bắp thay đường, ăn chơi như
một loại cốm.
Hơn 50 năm trôi qua, những
lùm chà là năm xưa đã thay thế rừng mía, bạch đàn, hoa màu bạt ngàn. Hi hữu lắm
bên bờ lô, bên cạnh những tản đá, mới bắt gặp vài lùm chà là sống cằn cỗi cùng
năm tháng. Hầu như cũng không còn sức để đẻ ra những chùm trái chà là rướm mật.
Bỗng dưng tôi nhớ da diết
mùa chà là. Những mùa ăm ắp tuổi thơ gần như trọn vẹn với một vùng đất tôi đã sinh
ra và lớn lên. Tất cả những ký ức thân thương của những người hay hoài cổ như
tôi nay chỉ còn là hoài niệm./.
AS.
Nhận xét
Đăng nhận xét