MÙA KẸP ĐÁC
http://baogialai.com.vn/…/gia-lai-mien-nho-mua-kep-dac-562…/
An Sinh
Ngày nay, ít ai còn nhớ rằng những hột đác trắng đục non mơn mởn được lấy từ rừng về từng là thực phẩm được ưa thích của người dân thuộc thôn An Mỹ, xã Phú An Cư huyện An Khê (nay là thị xã An Khê) vào thập niên 80 thế kỷ trước. 
Ngày ấy, tôi được phân công về làm kỹ thuật công trường đập thủy nông An Mỹ. Nhà tôi ở trọ là trại sản xuất của bác Tri gần chân đập. Lần ấy tôi tò mò nhìn những thau hột đác trắng đục nằm ngâm mình trong nước trong, bác Tri với tay múc cho tôi lưng chén và bảo: “Cháu ăn thử đi, ngon lắm đấy! đác mới kẹp hôm qua đã ngâm thay nước sạch sẽ, tí đem ra chợ bán”. Tôi nhón tay lấy một hột chấm đường, cắn vào nghe vị giòn, nhai sần sật, nhai lâu có vị dẻo hòa quyện với đường tan trong miệng một cảm giác mát rượi nơi đầu lưỡi.
Nhân ngày nghỉ, tôi theo bác lên rừng tìm đác. Nơi có nhiều đác là một eo núi Hòn Lớn, chỉ cách trại bác Tri chừng 2km. Men theo con đường mòn đi rừng, trước mắt tôi là màu xanh lục khó lẫn của cây đác trong đám cây rừng. Tiến lại gần hơn những cây đác này cao trên 10m, thân to bằng một người ôm, những bẹ khô ôm từ gốc tới ngọn, dây leo quấn chằng chịt. Bác Tri cùng 3 người con nhìn lên những chùm trái chen dày chi chít đóng thành chuỗi, kết thành buồng to, thòng xuống thân cây dài hơn 2m, ước chừng cả buồng nặng trên vài tạ. Một người con trai bác leo thoăn thoắt lên một cây rừng bên cạnh, chìa liềm cán dài cắt mấy quả rơi xuống để bác Tri ở dưới chặt ra kiểm tra. Theo kinh nghiệm bác Tri, quả đác khai thác được là khi hột đác bên trong có độ mềm vừa phải, nhai nghe sần sật, quả non thì hạt nhão không ngon. Mùa đác thu hoạch rộ nhất từ tháng 4 đến tháng 6. Sau tháng 6, hạt đác già, cứng không ăn được.
Buồng đác sau đó được cắt rời khỏi cuống rơi xuống đất. Mọi người xúm lại chất củi khô lên đống quả để đốt vì cuống quả có nhiều lông, rất ngứa; đồng thời quả đác phải được thui chín mới dễ lấy hạt. Khi ngọn lửa tàn là lúc những trái đác cháy rụng cuống nằm thành đống, khói lên nghi ngút. Do đác còn nóng nên chưa thể kẹp lấy hạt được. Bác Tri ngoắt tay tiếp tục đi tìm cây khác. Bên bìa khe nước ẩm ướt, những cây đác đứng chen chúc nhau thành chòm, trái oằn, tua xuống tứ phía. Bác Tri chỉ về một buồng trái chen giữa hai cây rồi ra hiệu nhắc anh con trai: “Cẩn thận, cây rậm rạp, ở phía bên kia có buồng trái sóc chuột ăn nhiều chắc là có rắn”. Bác cầm cây sào, đầu có chĩa ba bằng sắt, chọc vào thân, găm vào các bẹ khô xoắn lại kéo xuống khỏi thân để kiểm tra. Đúng như bác dự đoán. Khi mở ra là một ổ rắn, con nào cũng to như ngón chân cái, rằn ri, xám đen bò ra lổn ngổn. Chờ cho lũ rắn bò đi hết, không ai bảo ai, mọi người tự chặt cây làm giàn cạnh bên để leo lên cắt buồng. Khi buồng đác rơi xuống đất, tôi hăm hở tiến lại gần bổng một con rắn to như cổ tay, đầu tam giác, màu da rằng ri ngóc đầu ngoe nguẩy. Bác Tri bảo đó là những con rắn độc đang nằm phục săn mồi sóc, chuột đến ăn trái, nên đứng xa ra. Tiếp đó, lại một đống lửa nữa cũng được đốt lên để thui những chùm quả đác. Rồi cả nhóm chúng tôi trở lại đống đác thui trước đó bắt đầu dọn bãi sạch sẽ lót lá, ny lông để tiến hành kẹp đác. Một người dùng rựa chặt 1/3 quả đác bỏ thành đống, những người còn lại dùng một cây rừng bằng cổ tay chẻ làm đôi, cột chặt một đầu, đưa quả đác vào giữa kẹp mạnh, hạt đác trắng nõn bên trong văng ra khỏi vỏ. Mỗi quả đác chứa 3 hột to bằng ngón tay út người lớn. Chiều về, chúng tôi gùi những hột đác đổ vào thau để ngâm nước, khuấy rửa cho sạch, thay nước khoảng 5,7 lần cho hết nhớt mới ăn được. 
Cây đác có tên gọi khác là cây báng, cây đoác, hay đoăk. Tên khoa học là Arenga saccharifera Labill, thuộc họ dừa mọc nhiều trong các khu rừng miền Trung -Tây Nguyên, đặc biệt xuất hiện nhiều ở nơi khe núi ẩm thấp. Thân cây to hơn cây dừa, lá xòe ra như tàu dừa dựng đứng, màu xanh lục, mặt dưới lá có màu trắng nhạt. Cây đác đơm bông kết trái từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch. Quả đác có hình cầu màu xanh, to như trái táo. Cây đác mất 10 năm tuổi mới cho quả. Sau khi thu hoạch, cây mất 3 năm để tạo quả trở lại. Hột đác và thốt nốt gần giống nhau nên dễ bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, hột thốt nốt có màu trắng trong còn hạt đác có màu trắng đục mịn.
Theo các nghiên cứu khoa học, hột đác giàu vitamin cùng các khoáng chất cần thiết. Với giá trị dinh dưỡng cao cùng mùi vị thơm ngon, loại hột này trở thành thực phẩm tuyệt vời đối với sức khỏe, được dùng nhiều vào mùa hè. Bởi ngon miệng, lạ vị, lại có thể chế biến được thành nhiều món như hột đác rim đường, sữa chua hột đác, chè hột đác, hột đác rim siro.
Ngoài việc lấy quả người dân các nơi còn tận dụng khoét thân cây đác lấy “rượu đác”(loại thức uống gần giống với rượu) nên cây đác cho quả càng thưa dần. Những năm gần đây các chợ, các quán không còn thấy xuất hiện loại hạt này. Có lẽ do mức khai thác nhiều mà phương thức bảo quản nuôi trồng không có, cộng với rừng ngày càng thu hẹp nên hạt đác đã trở thành hoài niệm./.

Nhận xét